Giảm Khoảng Hở Kẽ Hai Răng Và Điều Trị Niềng Răng Mặt Trong Bằng Khay

nieng rang mat trong invisalin

Trong giai đoạn đầu phát triển kĩ thuật niềng răng chỉnh nha mặt lưỡi Invisalign, hầu hết bệnh nhân được điều trị bằng máng đều yêu cầu giảm khoảng hở kẽ hai răng (IPR). Đó là nguyên nhân hầu hết ClinChecks được trả lại nha sĩ có tổng số IPR được khuyến cáo bởi các kĩ thuật viên cài đặt Align Technology. 

Có hai nguyên nhân cơ bản co các lời khuyến cáo này.

Nguyên nhân đầu tiên là nhiều bệnh nhân điều trị bằng chỉnh nha Invisalign là bệnh nhân đã chịu điều trị chỉnh nha tái phát và vì vậy có chen chúc răng cửa dưới nhẹ. Kĩ thuật viên được dạy rằng cài đặt chúng không bao giờ nên làm rộng các răng nanh hàm dưới và không bao giờ làm loe răng cửa dưới. Chỉ có thể lựa chọn một cách bỏ chúng, đó là làm giảm chen chúc, hoặc bằng IPR hoặc nhổ một răng của dưới.

Lý do thứ hai là tránh tác dụng phụ của va chạm giả lập. Va chạm giả lập xảy ra mỗi khi kĩ thuật viên cài đặt cố gắng di chuyển răng theo cách bề mặt kẽ răng giả lập xuyên qua bề mặt kẽ răng giả lập bên cạnh, đó là điều không thể trong vật lý

nieng rang mat trongĐể chấp nhận ý định di chuyển răng để tạo khoảng, kĩ thuật viên cài đặt cần yêu cầu nha sĩ bỏ đi tổng số cấu trúc răng liên quan đến va chạm giả lập. Bảng bên dưới là bảng va chạm mà kĩ thuật viên TREAT đã truy cập vào phần mềm cài đặt staging.

Số lượng đường kẻ bên trên tượng trưng cho các răng khác nhau và các trục dọc tượng trưng cho số lượng máng. Ta có thể thấy rằng các điểm chạm giả lập có thể tăng và giảm trên quá trình điều trị. Hơn nữa, những điểm va chạm được đo bởi 1/100 milimet và làm tròn đến 1/10 milimet, và bề mặt giữa kẽ răng được tính toán bởi phần mềm nhận diện đường viền.

Kết quả là những khuyến cáo về tin tức chỉnh nha được làm tròn xấp xỉ bề mặt được ước lượng, vì thế có một vài lỗi vốn có trong các khuyến cáo.

nieng rang mat trong invisalinThêm vào đó, bất cứ va chạm nào lớn hơn 0,05 mm được xem như không đáng kể, trong đó máng theo lý thuyết có thể kéo đủ dài và không gây bất cứ vấn đề nào với điều trị. Kết quả là nếu như có nhiều va chạm đáng kể, kết quả có thể sẽ không có ý nghĩa lâm sàng bời vì chen chúc răng sẽ lớn hơn khoảng trống cho phép trong máng. Một vài răng sẽ chịu lực ấn để làm giảm chiều dài cung răng; nó thường là răng hàm cuối cùng nhưng nó cũng có thể là bất cứ răng nào trên cung hàm chỉnh nha mặt lưỡi.

Hiểu được quá trình này sẽ cho phép nha sĩ kiểm soát điều trị tốt hơn. Nó rất quan trọng bởi vì nha sĩ có ba lựa chọn IPR trong tiên lượng điều trị: CHỦ YẾU, NẾU CẦN, và KHÔNG CẦN. Lựa chọn NẾU CẦN không nhất thiết có ý nghĩa có lợi nhất cho người bệnh cần chỉnh nha mặt lưỡi, nhưng tốt hơn.

Nếu nha sĩ không chắc chắn về việc có sử dụng IPR hay không, họ có thể yêu cầu không IPR trên mẫu kế hoạch điều trị. Để đảm bảo không có va chạm không đáng kể, người ta cũng có thể yêu cầu không có va chạm trong các thiết lập để bắt chước điều trị được thực hiện với các thiết bị cố định. Nó cũng quan trọng để hiểu rằng chỉnh nha mặt lưỡi có một khả năng tương đương khoảng cách không đáng kể mà có thể dẫn đến khoảng trống còn lại khi điều trị xong.

Staging

Một việc quan trọng của kiểm soát di chuyển răng cùng với khay là staging. Staging là chu trình mà tại đó và tốc độ tại, răng được di chuyển với máng. Hình 19-36 biểu hiện biều đề staging cổ điển. Giống như bảng va chạm, số lượng đường ngang bên trên biểu tượng cho các răng khác nhau, và các trục dọc biểu tượng cho số lượng máng. Khác biệt ở chỗ biểu đồ staging cho phép nha sĩ dùng trong ClinCheck. Các cột dọc màu đen trong biểu đồ chỉ ra thời gian và tốc độ di chuyển. Mỗi số của máng được đại diện cho mỗi giai đoạn. Bạn sẽ chú ý một thiếu sót của biểu đồ staging là ở đó không thể hiện được mức độ di chuyển của răng. Nói cách khác, nó chỉ thông báo chon nha sĩ là răng có được di chuyển hay không. Nha sĩ cần sau đó cần tính toán mức độ di chuyển của răng bằng ước lượng tổng số khoảng cách và chia nhỏ ra bằng tổng số khay, giả sử mức độ di chuyển là tương đương xảy ra trong suốt toàn bộ khoảng cách di chuyển. Ngoài ra, không có cách nào chon ha sĩ biết được di chuyển đó là di chuyển thẳng hay di chuyển xoay. Chỉ biết được duy nhất đó là răng đang di chuyển. Kế hoạch staging ban đầu liên quan đến di chuyển răng từng phần, được thể hiện ở hình 19-36. Quá trình tư duy dựa trên cơ sở về khái niệm cổ điển của neo chặn, khi một nhóm răng được giữ cố định trong khi một nhóm nhỏ hơn thì di chuyển. Sự di chuyển khó khăn thường còn lại đến giai đoạn kết thúc điều trị chỉnh nha mặt lưỡi và kết quả trong việc kéo dài thời gian điều trị bằng cách thêm nhiều giai đoạn bổ sung. Để giảm số lượng quá mức của giai đoạn bổ sung, một số chuyển động khó được đẩy mạnh vượt quá một tỷ lệ hợp lý của di chuyển. Đôi khi nó trở thành một tiên tri tự hoàn rằng các phong trào khó khăn đã không thành công với khay. Ngoài ra, những răng được cho là giữ lại ở vị trí như một đơn vị neo chặn đã di chuyển theo cùng một cách mà các đơn vị neo chặn di chuyển với khí cụ cố định.

Một thay thế khác cho staging phân đoạn là làm theo như điều trị khí cụ cố định mà chặt chẽ hơn là staging đồng thời. Được đề xuất đầu tiên bởi Foy năm 2004 và sau đó được chắt lọc lại và vài năm sau, khái niệm di chuyển đồng thời đã được chấp nhận bởi Align Technology trong năm 2007 (Hình 19-37). Cơ sở cho di chuyển đồng thời đó là tất cả các răng trong mỗi cung hàm di chuyển đồng thời từ giai đoạn đầu tiên đến giai đoạn cuối cùng.

Răng di chuyển theo lệnh nhiều nhất trên tất cả cả các giai đoạn chỉnh nha mặt lưỡi tại Việt Anh dựa trên lực cho phép tối đa di chuyển răng. Di chuyển một răng khác đồng thời từ ban đầu đến giai đoạn cuối giảm lực kéo cho tất cả các di chuyển khác và tăng khả năng tiên lượng mà không cần răng tổng số máng. Chúng ta sẽ kiểm tra chúng chi tiết hơn với hàng loạt hình ảnh chụp màn hình từ phần mềm TREAT cung cấp cách đo thực sự của lực dùng để di chuyển răng (Hình 19-38 đến 19-42).  Nếu bạn khảo sát hình 19-38, bạn sẽ nhận ra rằng tất cả các răng trước đều di chuyển ở mức lực tối đa (.25mm trong một giai đoạn).

Trong Hình 19-39, được quyết định rằng răng bên hàm trên trái đã đạt mức độ giới hạn của răng chỉnh nha mặt lưỡi, những di chuyển từ khi bắt đầu của điều trị kéo dài với tất cả răng khác, kết quả là giảm từ 16 giai đoạn xuống 12 giai đoạn và tất cả răng chấp nhận mức giới hạn răng đều thực sự di chuyển châm hơn ở mỗi giai đoạn trước đó.

Có những thời điểm khi lực tịnh tiến không phải giai đoạn giới hạn mức, nhưng đúng hơn đó là lực quay. Có thể thấy rằng thậm chí dù di chuyển tịnh tiến chịu tốc lực tối đa, lực quay là lớn hơn so với mong đợi. Để tăng khả năng dự đoán điều trị, vận tốc quay phải được giữ dưới 2 độ mỗi giai đoạn. Bạn có thể thấy rằng khi vận tốc quay được giảm đến một giới hạn chấp nhận được, số lượng các giai đoạn một lần nữa tăng lên 19 giai đoạn.

Các tác dụng phục của việc giảm lực quay là làm giảm lực tịnh tiến trong cùng một thời điểm. Chú ý giảm lực di chuyển tuyển tính của răng bên hàm trên trái từ .24 mm một giai đoạn sang .15 mm một giai đoạn, và mặc dù có thể tăng số lượng các bước một chút, tiên lượng của kết quả điều trị vẫn tăng nhiều.

Điều quan trọng là phải hiểu rằng mặc dù một lượng đáng kể các thử nghiệm lâm sàng đã đi vào sự phát triển của mô hình staging, các bác sĩ chỉnh răng có thể luôn luôn yêu cầu tùy chỉnh staging khi nha sĩ cảm thấy nó là cần thiết để cải thiện kết quả điều trị.

Mặc dù không được khuyến cáo bởi Align Technology, có nhiều nha sĩ để có phức hợp di chuyển đã giảm một lượng lớn di chuyển tịnh tiến trong một bước khoảng 0,1 mm trên một giai đoạn và sau đó phát một máng mới trong một tuần dựa trên cơ sở có những máng duy trì có độ –cứng lớn hơn. Mặc dù kết quả trong hai hay nhiều máng, tổng thời gian điều trị vẫn là như nhau.

Share: